cười nhỏ nữa.
Và bỗng nhiên, giữa sự ồn ào của bão tố tôi nghe thấy tiếng kèn kẹt và tiếng rè rè của cái cần quay tay, và tiếng các chấn song sắt bắt đầu trượt vào kẽ hở. Trời ơi, ông ấy đag thả con mèo Brasil ra!
Dưới ánh sáng của cái đèn lồng, tôi nhìn thấy các chấn song sắt từ từ di chuyển. Đã có một khoảng trống rộng ba mươi centimet ngăn cách chúng với bức tường ở phía bên kia. Hét lên một tiếng lớn, tôi rúc vào cái song sắt cuối cùng và tôi kéo nó với sự điên cuồng của một kẻ mất trí. (Đúng là tôi đã trở nên điên dại vì nóng giận và kinh hoàng). Trong khoảng chừng hai phút, tôi giữ cái song sắt đứng yên. Tôi biết rằng ông anh họ tôi đang dùng hết sức lực đè vào cái cần quay tay, và cuối cùng thì sức mạnh đòn bẩy sẽ đánh bại sự chống cự của tôi. Tôi chỉ lùi từng centimet một; bàn chân tôi trượt đi trên nền lát đá, nhưng tôi vấn không ngừng nài nỉ tên quái vật vô nhân đạo hãy tha cho tôi khỏi một cái chết tàn bạo như thế này. Tôi cầu khẩn ông ta với danh nghĩa họ hàng của chúng tôi. Tôi kêu gọi lòng hiếu khách của ông. Tôi nài nỉ ông nói cho tôi biết là tôi đã bao giờ làm điều gì tệ bạc với ông chưa! Nhưng câu trả lời duy nhất của ông là những chấn động mà ông đặt vào cái cần quay tay; trong khi đó, cứ mỗi lần chấn động thì lại có một song sắt nữa biến mất vào khe hở. Cứ như thế tôi tự để cho mình bị kéo lê đi dọc theo cái chuồng, cho tới lúc cuối cùng, hai cổ tay đau nhừ, những ngón tay đẫm máu, tôi đành phải bỏ cuộc trong trận đấu không cân bằng này. Khi tôi thả tay ra, bức tường của các song sắt hoàn toàn mất dạng. Một lúc sau đó, tôi nghe tiếng đôi giày đỏ hở gót đi xa dần trong hành lang; cánh cửa ở cuối hàng lang đóng lại một cách nhẹ nhàng. Bây giờ tất cả đều yên lặng.
Trong lúc này, con vật không động đậy, nó nằm trên nệm rơm; đuôi nó đã thôi không vùng vẫy nữa. Cái cảnh tượng một người bị dính chặt vào các song sắt và bị kéo lê trước mặt có vẻ đã làm cho nó khiếp sợ. Tôi trông thấy đôi mắt lớn của nó trừng trừng nhìn tôi. Tôi đã để cái đèn lồng xuống đất khi tôi muốn bám chặt vào các song sắt vì nó vẫn còn đang cháy, tôi muốn cầm lấy nó, với ý nghĩ là ánh sáng có thể che chở cho tôi thì con vật gầm lên một tiếng khủng khiếp. Tôi dừng lại và đứng bất động, với sự kinh hoàng. Con mèo (khi chấp nhận rằng ta có thể gọi một con vật khủng khiếp như vậy bằng cái tên khả ái) ở cách xa tôi không quá ba mét. Cặp mắt nó sáng như hai cục lan tinh tròn trong đêm tối. Trông chúng như có phép thôi miên. Tôi không thể rời mắt khỏi chúng. Trong những giây phút căng thẳng thế này, tạo hóa đã đùa với chúng ta những trò kỳ lạ; các tia sáng này cứ tăng lên và giảm đị theo một nhịp độ đều đặn. Lúc thì chúng giống như hai điểm bé xíu với một ánh sáng cực mạnh, như những tia điện lóe lên trong mộtcăn phòng tối mịt, lúc thì chúng tỏa rộng ra và lớn lên cho tới lúc tất cả cái góc phòng mà con vật ngồi đều tràn đấy cái ánh sáng ma quỷ ấy. Rồi chúng tắt đi một cách đột ngột.
Con vật đã nhắm mắt lại. Tôi không biết có một sự thật nào không trong cái ý nghĩ cổ xưa về uy lực của cái nhìn của con người, do đó con mèo Brasil có thể đã ngủ. Có vẻ như thay vì biểu lộ một ý định hung hăng, thì nó lại tỳ cái đầu đen và óng ánh của nó lên hai bàn chân trước kếch xù và có vẻ như muốn ngủ. Tôi không dám nhúc nhích, sợ rằng sẽ làm thay đổi thái độ của nó, nhưng ít ra tôi cũng có thể suy nghĩ vì cặp mắt khủng khiếp của nó không nhìn tôi nữa. Thế là tôi đã bị nhốt một đêm với con dã thú này. Bản năng của tôi kết hợp với những lời nói của tên đểu cáng đã lừa tôi vào bẫy cảnh báo rằng tôi đang phải đương đầu với một con vật cũng tàn bạo như chủ của nó. Làm thế nào để tránh khỏi sự nguy hiểm cho tới sáng? Về phía cái cửa, không có một hy vọng nào; còn về các cửa sổ, chúng rất hẹp và có song sắt. Không ở chỗ nào có một nơi lánh nạn, một chỗ trú ẩn trong căn phòng trần trụi này. Gọi cầu cứu cũng là vô bổ; tôi biết rằng cái hang dã thú này là một căn phòng phụ thuộc và cái hành lang nối liền nó với chái nhà của ngôi nhà dài tới ba mươi hay bốn mươi mét. Ngoài ra, với giông bão đang hoành hành bên ngoài, những tiếng kêu của tôi sẽ không ai nghe thấy. Tôi chỉ còn có thể trông cậy vào lòng can đảm và sự khôn khéo của tôi mà thôi.
Hỡi ôi, một lớp sóng tuyệt vọng mới đã nhận chìm tôi! Trong mười phút nữa, cái đèn lồng sẽ tắt ngúm. Tôi chỉ còn có mười phút để hành động. Tôi tự biết rằng tôi không còn khả năng tự vệ nếu tôi ở trong đêm tối mịt mù cùng với con dã thú này. Nghĩ tới chuyện này, tôi như tê liệt toàn thân. Cặp mắt hoảng sợ của tôi nhìn một vòng quanhcăn phòng nhốt tử tội này; chúng dừng lại ở một nơi duy nhất tuy không hứa hẹn cho tôi một sự an toàn trọn vẹn nhưng ở đó tôi sẽ đỡ bị lộ ra hơn là ở trên sàn nhà trơ trụi.
Cái chuồng có một cái mái, và cũng có một cái mái ngoài; cái mái này vẫn nằm ngang khi cái mái ngoài được kéo tuột vào trong kẽ hở. Khung sườn của nó được làm bằng những thanh sắt đặt cách nhau độ vài centimet và được phủ bằng một lớp lưới dây thép, nó được dựng ở mỗi bên một cái trụ rất lớn. Trông nó giống như một cái lọng lớn được căng ra, bên trên cái bóng mờ nằm trong góc phòng. Giữa cái dàn bằng sắt này và trần nhà là khoảng bảy mươi hay tám mươi centimet. Chỉ cần tôi có thể lên được đó và ngồi gọn vào giữa các song sắt và trần nhà thì tôi sẽ chỉ còn bị nguy hiểm ở một phía thôi, sự an toàn của tôi được bảo đảm ở phía dưới, ở đằng sau, ở đầu và hai chân. Tôi chỉ có thể bị tấn công ở mặt bị bỏ ngỏ phía trước thôi. Ở phía này thật tình tôi sẽ không lợi dụng được một sự che chở nào. Ít ra tôi cũng không phải đứng trên lối đi của con vật khi nó đi vòng trong hang ổ của nó. Muốn vồ được tôi, nó phải thay đổi các thói quen của nó. Nhưng nếu tôi muốn hành động thì phải làm ngay bây giờ, nếu không chẳng bao giờ làm được nữa, vì một khi cái đèn lồng đã tắt, tôi sẽ không còn khả năng để làm gì nữa. Với một sự nôn nòng hồi hộp ứ lên tận cổ họng, tôi tung mình lên. Tôi bám lấy cái mép sắt của mái chuồng và thở hổn hển, tôi cố lấy lại sức để đu người lên phía trên. Tôi nằm sấp xuống một cách nhẹ nhàng để nhận thấy rằng cái nhìn của tôi chiếu thẳng vào cặp mắt khủng khiếp của con mèo. Nó phì vào mặt tôi hơi thở hôi hám của nó, tôi có cảm tưởng là mình đang nằm bên trên một cái nồi nấu những thứ ô uế ghê tởm.
Tuy nhiên, nó có vẻ kinh ngạc hơn là tức giận. Nó duỗi tất cả bề dài của cái lưng đen xì của nó ra, đứng dậy, vươn vai và ngáp dài; sau đó nó đứng thẳng ên trên hai chân sau, chống một chân trước vào tường và giơ chân kia lên, lấy móng quơ vào những sợi dây thép của mạng lưới mắt cáo mà tôi nằm trên. Một cái móng trắng nhọn hoắt xé rách quần tôi (tôi vẫn còn mặc bộ quần áo dạ hội) và để lại một vết xước dài trên đầu gối tôi. Nói đúng ra thì đó không phải là một sự tấn công, nhưng chỉ là một sự thăm dò. Quả tình là tôi đã để thốt ra một tiếng kêu đau nhỏ và con thú lại ngã ra phía sau, đứng trên bốn chân. Nó bước một cách nhẹ nhàng bắt đầu đi vòng quanh căn phòng, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu lên nhìn về phía tôi. Tôi cố sức lùi vào để áp lưng vào bức tường. Tôi càng ngồi xa cái mép bao nhiêu thì nó càng khó tấn công tôi bấy nhiêu.
Từ lúc bắt đầu cử động, nó có vẻ bực bội hơn. Nó bước nhanh hơn và lặng lẽ vòng quanh căn phòng, đi qua, đi lại dưới chỗ ẩn náu của tôi. Thật là tuyệt diệu, khi được thấy một khối thịt đồ sộ như vậy đi lại như một cái bóng mag không co một tiếng động nào khác ngoài tiếng đập trầm, nhẹ nhàng của những bàn chân bọc nhung của nó! Ánh lửa của cái đèn lồng đã gần như không còn nhìn thấy được nữa; tôi khó mà nhìn rõ