nh xử rất khôn khéo, khiến cho các liên hệ của tôi với ông anh họ đã trở nên cực kỳ thân thiết, mỗi buổi tối, hai chúng tôi đều thức rất khuya trong phòng chơi bida, và ông đã kể cho tôi nghe những chuyến mạo hiểm kinh dị nhất của ông ở châu Mỹ: những câu chuyện của ông quá rùng rợn, quá khủng khiếp, mà ông kể lại với một vẻ vô tư quá đỗi khiến cho tôi khó mà tin được rằng người anh hùng trong các câu chuyện đó lại là con người nhỏ bé, má phính đang ngồi bên cạnh tôi. Để đánh đổi lại, tôi cũng nỏia từ trong ký ức vài mẩu giai thoại về cuộc sống ở Luân Đôn; những giai thoại này làm ông thích thú đến nỗi ông hứa rằng sẽ tới Luân Đôn thăm tôi và sẽ ở lại nhà tôi ở khu nhà Grosvenor. Ông rất muốn được hội nhập vào cái thế giới của những cư dân của thủ đô; ông còn có thể nhờ vào người hướng dẫn nào thành thạo hơn nữa, tuy nhiên tôi phải đợi tới ngày cuối cùng mới đề cập tới vấn đề chính yếu của tôi. Tôi thành thật kể cho ông rõ những điều phiền phức về tai chánh của tôi và sự suy sụp đang rình rập tôi; sau đó, tôi hỏi ý kiến của ông, trong lòng hy vọng một điều gì cụ thể hơn. Ông lắng nghe tôi nói, miệng luôn phì phèo điếu xì gà.
Rồi ông hỏi tôi:
- Nhưng mà này, chú chính là người thừa kế của ông bác chúng ta, Lord Southerton, phải không?
- Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng không bao giờ ông ấy cho tôi môt xu.
- Tôi có nghe nói về tính keo kiệt của ông ấy. Chú Marshall khốn khổ ơi! Chú gặp cảnh quá khó khăn đó! Nhân nói về chuyện đó, chú có nhận được tin tức mới nào về sức khỏe của Lord Southerton không?
- Từ khi tôi còn nhỏ tý ty, lúc nào ông ấy cũng đau ốm, không nhiều thì ít.
- Đúng thế, sự thừa kế của chú còn có thể chậm trễ lâu hơn nữa. Lạy Chúa, nhưng hoàn cảnh của chú thật kỳ cục!
- Thưa anh, tôi hy vọng là anh đã biết rõ các sự việc và anh có thể vui lòng giúp cho tôi...
- Đừng nói thêm gì nữa, chàng trai thân mến của tôi! – Ông kêu lên với sự nồng nhiệt – Ta sẽ nói về chuyện này tối hôm nay và tôi hứa với chú là tôi sẽ làm tất cả những gì trong khả năng của tôi!
Tôi không thấy có gì phật ý khi thấy những ngày lưu lại đây của tôi sắp kết thúc, vì không có gì khó chịu bằng việc cảm thấy mình kothích hợp với và chủ nhà. Nét mặt vàng nhạt và cặp mắt lạnh như băng của bà King càng ngày càng trở nên đáng ghét đối với tôi. Bà không còn tỏ ra công khai vô lễ nữa; bà quá sợ ông chồng nên không dám có thaid độ hỗn xược. Nhưng bà đẩy tính ghen tuông ngu xuẩn của bà tới chỗ là làm lơ tôi đi; không bao giờ bag nói với tôi một lời; và bà nghĩ mọi cách để làm cho sự lưu ngụ của tôi tại Greylands trở nên cực kỳ buồn tẻ. Nhất là vào ngày cuối cùng, bà tỏ một thái độ quá trắng trợn khiến tôi tính bỏ đi ngay tức thì, nếu tôi không đặt nhiều hi vọng vào cuộc hội kiến mà tôi cần phải có trong buổi tối.
Cuộc hội kiến này diễn ra rất muộn. Ông anh họ tôi đã tiếp nhận trong lúc ban ngày nhiều bức điện tín hơn là thường lệ và sau bữa ăn ông đã tự nhốt mình trong văn phòng; ông chỉ bước ra khi nọi người trong nhà đã đi ngủ. Tôi nghe thấy ông đi vòng quanh nhà để khóa các cửa ngõ, theo như thói quen của ông. Sau cùng, mình choàng một cái áo ngủ và chân đi đôi giày đỏ hở gót, ông tới gặp tôi trong phòng chơi bida. Ông ngồi phịch xuống cái ghế bành bà tự tay rót một cốc Whisky Soda; tôi không thể làm gì khác hơn là nhận thấy lượng Whisky nhiều hơn là nước soda.
Ông thở dài:
- Trời! Một đêm thật dễ sợ!...
Thật vậy, gió gào thét, rên rỉ khắp chung quanh căn nhà; những cửa sổ kêu răng rắc và cọt kẹt làm như chúng sắp bị phá vỡ tung. Ánh sáng của những ngọn đèn và mùi thơm xì gà của chúng tôi đã tạo ra một khung cảnh thoải mái hơn.
-... Bây giờ, chàng trai của tôi ơi, - ông chủ nhà nói tiếp – cả ngôi nhà và bầu trời đêm đều thuộc về chúng ta. Chú có muốn chỉ cho tôi thấy một cách chính xác tình trạng công việc của chú không? Tôi sẽ xem làm cách nào để chỉnh đốn chúng lại. Cho tôi biết mọi chi tiết đi.
Sau khi được khích lệ nhu vậy, tôi lao mình vào một bài thuyết trình đầy đủ trong đó có tên tuổi tất cả những người bán hàng và chủ nợ của tôi, từ ông chủ nhà cho tới anh hầu phòng. Tôi lập cho ông một bản kết toán mà tôi tự hào là một kiểu mẫu trong loại này. Nhưng tôi hơi bực bội khi thấy rằng người bạn của tôi có một cái nhìn trống rỗng của một kẻ mà sự chú tâm đang để ở mãi đâu đâu. Mỗi lần khi ông ngắt lời tôi chỉ là để đưa ra một nhận xét hời hợt chẳng ăn nhằm vào đâu; tôi tin chắc là ông chẳng theo dõi những lời giải thích của tôi một chút nào. Thỉnh thoảng ông ngồi ngay ngắn người lại, hình như tự làm cho tỉnh táo lại, ông bảo tôi nhắc lại một số câu hay bổ sung câu đó bằng một sự chính xác phụ thêm, rồi lại đắm chìm trong các suy tư riêng rẽ của ông. Cuối cùng, ông đứng lên và quăng điếu xì gà vào ống khói. Ông nói với tôi.
- Tôi xin thú thật với chú một vài điều, chàng trai của tôi ạ. Từ xưa không bao giờ tôi giỏi về tính nhẩm và tôi rất tiếc điều đó. Chú phải viết tất cả những việc đó lên giấy và làm con tính cộng của chú bằng cách viết ra. Tôi sẽ hiểu các con số khi tôi đọc trên giấy trắng mực đen...
Lời đề nghị không có gì là quá đáng cả. Tôi hứa là tôi sẽ thực hiện.
- Và bây giờ là lúc chúng ta đi ngủ. Ồ, đã một giờ rồi!
Tiếng chuông đồng hồ ở phòng ngoài đã chế ngự được sự ồn ào của bão táp trong giây lát.
- Tôi phải đi xem con mèo của tôi trước khi lên lầu đi ngủ. Một cơn gió lớn cũng làm nó bực bội. Chú có muốn đi với tôi không?
- Nhất định rồi.
- Vậy thì hãy đi nhẹ nhàng và đừng nói chuyện vì mọi người đang ngủ.
Chúng tôi lặng lẽ đi qua phòng ngoài, rồi qua cái cửa mở và hành lang lát đá ở cuối chái nhà. Tất cả đều tối tăm, nhưng có một ngọn đèn lồng ở chuồng ngựa được treo vào một cái móc. Ông anh họ tôi cầm lấy và đốt lên. Những chấn song sắt không nhìn thấy được trong hành lang; vậy là con vật đang nằm trong chuồng.
Ông anh họ tôi mở cửa và nói với tôi.
- Vào đi!
Một tiếng gầm gừ dữ dội báo cho chúng tôi biết con vật đang rất giận dữ vị thời tiết xấu. Dưới ánh sáng chập chờn của cái đèn lồng, chúng tôi nhìn thấy nó. Cái khối đen kếch xù đang co rút lại trong một góc ổ của nó, chiếu ra một cái bóng lùn tịt trên bức tường quét vôi trắng; đuôi nó đập xuống nệm rơm một cách tức tối.
- Con Tommy khốn khổ không được hài lòng lắm. Edward King nói và giơ cao đèn lồng lên để nhìn nó. – Trông nó giống như một con hắc quỷ lắm phải không? Tôi sẽ cho nó ăn tối để cho nó dịu đi. Chú cầm hộ tôi cái đèn lồng một lát được không?
Tôi cầm lấy cái đèn này từ tay ông đi tới chỗ cái cửa.
- Tủ thức ăn của nó để ở bên cạnh. Chờ tôi một chút có được không?
Ông đi ra và cánh của khép lại sau lưng ông với một tiếng lanh canh của kim loại. tôi rùng minh. Một nỗi kinh hoàng mơ hồ đột nhiên tràn ngập lòng tôi. Ý nghĩ hoang mang về một sự phản trắc đầy tội lỗi làm máu tôi lạnh buốt như băng. Tôi chồm lên cánh của nhưng ở phía trong không có chốt cài.
Tôi kêu lên.
- Này! Cho tôi ra đi!
Từ ngoài hành lang ông anh họ tôi đáp lại.
- Đừng la om sòm lên! Chú có cái đèn lồng mà, phải không?
- Vâng, nhưng tôi chẳng có thích thú nào khi bị nhốt một mình như thế này.
- Thế nào? Chú không thích bị nhốt một mình à?
Tôi nghe thấy tiếng cười đùa cợt nhả của ông ấy.
-... Chú sẽ không phải ông đó một mình lâu đâu, tôi hứa với chú điều này!
- Này, ông anh, hãy để tôi ra đi! – tôi giận dữ nhắc lại – Tôi đoan chắc với anh rằng tôi không phải là hạng người dễ bỏ qua những lối đùa cợt như thế này.
- Những sự đùa cợt thật đúng lf danh từ thích hợp! – Ông đáp lại với một tiếng